Khá nhiều người quan tâm tới địa chỉ bán bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình để đặt mua cho gia đình mình. Dưới đây là gợi ý mà Dung Thủy muốn dành cho bạn.
1. Tình hình kinh tế – xã hội tại Thái Bình:
- Là một trong những tỉnh có lịch sử thành lập lâu đời nhất miền Bắc với hơn 120 năm kể từ thời Pháp thuộc cho tới ngày nay, Thái Bình đang nỗ lực phát triển kinh tế – xã hội để trở thành trung tâm kinh tế của miền Bắc.
- Nơi đây đang phát triển các ngành kinh tế như nuôi trồng thủy sản, khu công nghiệp, cảng biển logistic. Do đó, đời sống người dân ở thành phố Thái Bình và các huyện lân cận đang từng bước nâng dần. Vì vậy, nhu cầu về sắm sửa các đồ đạc nội thất ngày càng nhiều, trong đó có các mẫu sofa gỗ tự nhiên. Tuy nhiên không dễ dàng gì để tìm mua bàn ghế sofa gỗ tự nhiên ở Thái Bình vì hầu như không có khu nhà xưởng sản xuất loại này.
Xem thêm: Địa chỉ bán bàn ghế sofa gỗ tự nhiên giá rẻ và tốt tại Ninh Bình
2. Địa chỉ bán bàn ghế sofa gỗ giá rẻ tại Thái Bình:
- Thái Bình nổi tiếng với nghề trồng lúa và dệt tơ tằm, một vài món đặc sản như bánh cáy. Về làng nghề sản xuất đồ gỗ nội thất thì khá ít, do đó quý khách sẽ khá vất vả để tìm kiếm cửa hàng bán bàn ghế sofa ở tỉnh Thái Bình.
- Nếu như vẫn chưa thể mua bàn ghế sofa phòng khách ở Thái Bình, quý khách có thể tìm tới các địa phương lân cận để đặt mua, ví dụ như xưởng Nội thất Dung Thủy ở Thạch Thất – Hà Nội.
- Có khá nhiều người con Thái Bình hiện vẫn đang làm việc ở thủ đô hoa lệ nên có thể ghé qua xưởng của chúng tôi để đặt mua các mẫu ghế sofa gỗ góc chữ L thông minh hay ghế sofa gỗ góc chữ L gia đình với mức báo giá bộ ghế phòng khách khá tốt.
- Sofa gỗ sồi Nga
- Sofa gỗ hương xám
- Sofa gỗ gõ đỏ
- Sofa gỗ xoan đào
- Sofa gỗ óc chó
- Sofa da/nỉ
Xem thêm: Mua sắm bàn ghế sofa gỗ tự nhiên ở đâu tốt và rẻ ở tỉnh Hòa Bình?
3. Vài nét về tỉnh Thái Bình
Thái Bình là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, diện tích tự nhiên 1.534,4 km2, dân số khoảng 1,8 triệu người.
Thái Bình là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, diện tích tự nhiên 1.534,4 km2, dân số khoảng 1,8 triệu người. Trong quá trình cải biến của thiên nhiên, trải qua hàng chục vạn năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, đất đai Thái Bình được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ phù sa của hai con sông lớn là sông Hồng và sông Thái Bình cùng với công cuộc quai đê khẩn hoang, lấn biển của nhiều thế hệ cư dân. Vào khoảng thế kỷ 7- 6 trước công nguyên, những lớp cư dân đầu tiên từ chân núi Ba Vì, Tam Đảo và các vùng thung lũng, trung du thuộc Phú Thọ, Sơn Tây… đã tiến dần xuống các vùng đầm lầy ven biển hạ lưu sông Hồng. Sức hấp dẫn của vùng đất ven biển màu mỡ phù sa, thuận lợi cho việc đánh bắt cá, trồng lúa nước đã nhanh chóng cuốn hút ngày càng đông luồng dân cư kết nối nhau về tìm nơi sinh tụ. Cho đến những thế kỷ đầu Công nguyên, phần lớn đất đai Thái Bình đã được khai hoang, phục hoá, hình thành các khu vực tập trung cư dân tạo nên một đời sống sinh hoạt đa dạng, nhộn nhịp.
Cùng với quá trình hình thành đất đai và cư dân, địa vực Thái Bình đã được đưa vào địa dư hành chính quốc gia với nhiều cấp độ và thay đổi khác nhau. Đầu Công nguyên, Thái Bình nằm trong vùng đất phía Nam cuối cùng của huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Thế kỷ thứ X, khi Ngô Quyền xưng vương, Thái Bình thuộc đất Đằng Châu (bao gồm cả Thái Bình, Hưng Yên sau này). Thời Tiền Lê, năm Ứng Thiên thứ 9 (1002), Lê Đại Hành đổi đạo làm lộ, dưới lộ là phủ, dưới phủ là hương. Khi Lê Long Đĩnh (1005-1009) lên ngôi đổi Đằng Châu là Phủ Thái Bình, theo “Đại Việt sử ký Toàn thư” tên Phủ Thái Bình có từ đấy. Phải đến đời Trần, thế kỷ XIII trở đi, địa vực Thái Bình mới thật sự rõ nét trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Năm 1252, Trần Thái Tông đổi 24 lộ làm 12 lộ phủ, dưới lộ phủ huyện, hương. Thái Bình thuộc lộ phủ Long Hưng và các lộ phủ Kiến Xương, An Tiêm. Thời Lê sơ (1428-1527), chia nước làm 5 đạo, dưới đạo là trấn, phủ, huyện, châu, xã. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông chia nhỏ các đạo thành 13 đạo và bỏ đơn vị hành chính trung gian như trấn, lộ; lúc này Thái Bình thuộc Nam Đạo sau là đạo Sơn Nam, đến năm 1741, Lê Hiển Tông đổi đạo làm trấn và chia đạo Sơn Nam thành 2 trấn: Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ, Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Thời Nguyễn, năm Minh Mạng thứ ba (1822), lúc đầu toàn bộ Thái Bình vẫn thuộc trấn Nam Định, sau thuộc hai tỉnh Hưng Yên và Nam Định.
Ngày 21-3-1890, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, bao gồm các huyện: Thanh Quan, Thụy Anh, Đông Quan, Trực Định, Thư Trì, Vũ Tiên, Tiền Hải, Phụ Dực, Quỳnh Côi (thuộc Nam Định) và huyện Thần Khê (thuộc Hưng Yên). Năm Thành Thái thứ 6 (1894) cắt thêm 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà (thuộc tỉnh Hưng Yên) nhập trở lại Thái Bình. Đến lúc này, tỉnh Thái Bình với tư cách là tỉnh – một đơn vị hành chính độc lập gồm 3 phủ: Tiên Hưng, Kiến Xương, Thái Ninh và 12 huyện: Duyên Hà, Hưng Nhân, Tiên Hưng, Thụy Anh, Đông Quan, Thái Ninh, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thư Trì, Vũ Tiên, Trực Định, Tiền Hải.
Những năm đầu thế kỷ XX, người Pháp phân cấp lại bộ máy quản lý trên địa bàn tỉnh. Phủ và huyện đều là cấp hành chính tương đương cùng do cấp tỉnh trực tiếp quản lý, lúc này Thái Bình có 3 phủ, 9 huyện và 1 tỉnh lỵ, gồm: phủ Kiến Xương, phủ Thái Ninh và phủ Tiên Hưng, huyện Vũ Tiên, huyện Thư Trì, huyện Tiền Hải, huyện Đông Quan, huyện Thụy Anh, huyện Phụ Dực, huyện Quỳnh Côi, huyện Hưng Nhân, huyện Duyên Hà và tỉnh lỵ Thái Bình.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 10-4-1946, Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bỏ đơn vị tổng, đổi phủ thành huyện. Toàn tỉnh lúc này có 12 huyện, 1 thị xã với 829 xã, thôn.
Ngày 17-6-1969, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 93-QĐ/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới, Thái Bình còn 7 huyện và 1 thị xã. Năm 2004, Thị xã Thái Bình được công nhận là Thành phố thuộc tỉnh (theo Nghị định số 117/2004/NĐ-CP, ngày 29/4/2004 của Chính phủ).
Từ ngàn xưa, đất đai tỉnh Thái Bình vốn là bãi bồi phù sa ven biển, có sức cuốn hút các thế hệ cư dân từ nhiều vùng miền đổ về khai phá, chung lưng đấu cật quai đê trị thủy, lấn biển, lập làng để tạo thành một miền quê trù phú.
Địa phận tỉnh Thái Bình được giới hạn bằng ba mặt giáp sông, một mặt giáp biển. Do sự hội tụ cư dân từ “chín người mười làng” về hợp cư sinh tồn ở nơi đầu sóng ngọn gió, cửa ngõ của biển Đông nên các thế hệ cư dân ở đất này đã sớm hình thành và vun đắp nên những truyền thống nổi trội, góp phần tích cực vào quá trình tạo lập những tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Có khá nhiều công trình nghiên cứu về Thái Bình của các học giả trong và ngoài nước đã hướng tới sự khẳng định: Do chung đúc khí thiêng sông biển nên những bậc anh hùng hào kiệt “lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” ở đất này thời nào cũng có.
Nếu như trong truyền thống, Việt Namon> là một nước nông nghiệp thì Thái Bình là một trong những miền quê có nền kinh tế nông nghiệp sớm phát triển. Trải ngàn đời, từ truyền thống đến hiện tại Thái Bình luôn là một điển hình về thâm canh lúa nước.
Do cư dân sớm đông đúc, giỏi thâm canh lúa nước và phát triển các nghề thủ công nên vùng quê này từng được sử sách tôn vinh là “quê lúa, đất nghề”, là “kho người, kho của” cung cấp nhân tài, vật lực cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước ở mọi thời kỳ lịch sử.
Theo các nguồn sử liệu thì vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, nhiều vùng đất nay thuộc tỉnh Thái Bình đã khá sầm uất với các lớp cư dân sinh sống chủ yếu nhờ gieo cấy lúa nước và đánh bắt thủy hải sản. Có lẽ, đó chính là nguyên cớ để vào thế kỷ thứ VI, Lý Bí đã chọn đất này làm nơi dấy nghĩa đánh giặc Lương dựng nước Vạn Xuân.
Đến thế kỷ thứ X, vùng đất Bố Hải khẩu mà trung tâm là thành phố Thái Bình ngày nay đã là nơi ruộng tốt, người đông và là một trong những trung tâm giao lưu với cảnh trên bến dưới thuyền. Đó là cơ sở để tướng quân Trần Lãm chọn cát cứ mà trở thành sứ quân mạnh nhất, làm nơi nương tựa cho Đinh Bộ Lĩnh thống nhất giang sơn, lập nghiệp đế vương.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã cho biết: vào năm 965, khi nhà Ngô mất, đất nước loạn lạc, giang sơn bị chia cắt trong cảnh loạn 12 sứ quân (966 – 968), sứ quân Trần Lãm có thế lực mạnh chiếm giữ vùng Bố Hải khẩu. Trần Lãm vốn nổi tiếng tài ba, đức độ nhưng không có con nối dõi. Đinh Bộ Lĩnh nổi dậy ở Hoa Lư bèn cùng con là Liễn tìm đến nương tựa. Minh Công (Trần Lãm) thấy Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô lạ thường, lại có khí lượng, bèn nhận làm con nuôi, ưu đãi ngày càng hậu, sau giao cả binh quyền. Trên cơ sở đó Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên các sứ quân, thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng đế, lập ra nước Đại Cồ Việt, khẳng định một quốc gia có chủ quyền độc lập.
Về sự giao thoa chính trị – kinh tế – quân sự giữa hai vùng đất thiêng Bố Hải khẩu – Hoa Lư đã được Giáo sư sử học người Mỹ là Taylor nhận định trong cuốn Sự ra đời của nước Việt Nam rằng: “Bố Hải khẩu lúc bấy giờ là trung tâm buôn bán chính với bên ngoài, sự liên kết giữa trung tâm Hoa Lư và Bố Hải khẩu, một về chính trị, một về thương mại đó là một bước tiến tự nhiên đến việc thống nhất nước Việt Nam”.
Vào thế kỷ XI, diện mạo kinh tế – xã hội, đặc biệt là nền nông nghiệp ở vùng này đã phát triển, làng mạc đã trù phú. Bằng chứng là khi nhà Lý mở mang chính sách khuyến nông, vào những năm 1038 – 1065 vua Lý Thái Tông và vua Lý Thánh Tông đã về Bố Hải khẩu cày ruộng tịch điền. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa xuân, tháng hai vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sai hữu ti dọn cỏ, đắp đàn. Vua tế thần nông, tế xong tự cầm cày để muốn làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: “Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì phải làm thế” – Vua nói “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo”.
Thế mới hay, từ đầu thế kỷ XI, các vị vua anh minh triều Lý đã nhận thức được nơi đây là miền quê trọng yếu về nông nghiệp để chọn làm nơi cày ruộng tịch điền, khơi nguồn cho chính sách khuyến nông của quốc gia Đại Việt.
Bước sang thế kỷ XIII, hệ thống làng xã thuộc Thái Bình ngày nay đã cơ bản ổn định, có đồng đất tốt tươi, dân tình trọng hậu để rồi tổ tiên nhà Trần từ nghề đánh cá đã chọn được miền Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Hà) mà lên bờ định cư lập nghiệp. Từ vùng đất này họ Trần đã sinh ra những anh tài kiệt hiệt, nhờ phát nghiệp nông tang mà trở nên giàu có, từng bước tiến thân vào vũ đài chính trị mà mưu nghiệp lớn để rồi đến đời thứ tư họ Trần ở Hải Ấp đã khai nghiệp đế vương. Trải những năm tháng tái thiết đất nước và ba lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông, nhà Trần đã rất chú trọng thực hiện những kế sách phát triển kinh tế – xã hội ở các phủ lộ nay thuộc tỉnh Thái Bình để làm chỗ dựa mà hưng nghiệp và giữ nghiệp.
Ở thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã viết trong sách Dư địa chí về phủ Kiến Xương và các vùng đất lân cận nay thuộc tỉnh Thái Bình là “đất đai màu mỡ phì nhiêu vào bậc nhất” và ông đã nhấn mạnh: “Phí dụng nuôi quân các triều đều lấy từ đất này”. Lời nhận xét đó đủ cho thấy vị thế của Thái Bình trong lịch sử dân tộc.
Vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn, nhà bác học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến, đã có những trước tác đồ sộ viết về nhiều lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Do am tường về đất và người của quê hương mình nên trong khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là ở bộ sách Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã chú tâm khảo tả khá tỷ mỷ về sự siêng năng, cần mẫn, về kỹ nghệ gieo cấy lúa nước trong các khâu: nước, phân, cần, giống của người nông dân ở các phủ huyện nay thuộc Thái Bình.
Là một vùng quê có nhiều yếu tố thuận lợi cho việc gieo cấy lúa nước, các thế hệ cư dân Thái Bình đã truyền đời “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” tích lũy thành một kho tàng kinh nghiệm thâm canh lúa. Kho tàng đó ngày càng được bồi đắp thêm để đến thời kỳ hiện đại, hơn bảy thập kỷ qua, Thái Bình luôn chiếm giữ đỉnh cao về tăng năng suất lúa. Năm 1966, trong hoàn cảnh đạn bom khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Thái Bình đã giành năng suất lúa 5 tấn/ha bình quân trong toàn tỉnh để trở thành quê hương 5 tấn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Người suốt đời cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc và nhân dân đã dành nhiều tâm lực chăm lo cho lĩnh vực nông dân, nông nghiệp, nông thôn, Người đã 5 lần về thăm Thái Bình. Lần thứ tư Người về thăm là để chia vui cùng Đảng bộ và nhân dân Thái Bình vì là tỉnh đầu tiên của miền Bắc đã đạt kỷ lục 5 tấn thóc/ha.
Quê lúa Thái Bình, quê hương 5 tấn đã và còn là nguồn cảm hứng bất tận với giới văn nghệ sĩ. Nếu như trong Bài ca năm tấn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã khẳng định “năm tấn thóc để góp phần đánh Mỹ. Ruộng đất quê ta không muốn nghỉ lấy một ngày” thì trong Nắng ấm quê hương, nhạc sĩ Vĩnh An lại nhấn mạnh thêm: “Dù trong nắng trong mưa, lúa vẫn lên xanh tốt. Dù trong bom trong đạn đất vẫn cứ sinh sôi. Thái Bình ơi Thái Bình”. Đó là những sự khái quát, sự khẳng định một cách tài tình về truyền thống của vùng đất, con người Thái Bình và sẽ mãi mãi là những bài ca đi cùng năm tháng.
Khi đất nước bước vào thời kỳ CNH, HĐH thì Thái Bình vẫn được xác định là tỉnh trọng điểm lúa, năng suất, sản lượng lúa vẫn tiếp tục được nâng lên cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Do những đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình và cư dân nên Thái Bình đã là nơi hội tụ và lan tỏa các sắc thái văn hóa, văn minh của vùng châu thổ Bắc Bộ, vốn được coi là đất chèo, là quê hương của múa rối nước. Trải bao thăng trầm, đến nay Thái Bình còn hàng nghìn công trình kiến trúc cổ, một phần lớn đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 2 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đó là chùa Keo, một trong những biểu tượng ngời sáng của bản sắc văn hóa Việt Nam; Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần, vốn là niềm tự hào vĩnh hằng về vùng đất phát đế vương đã sinh ra những bậc hiền tài khai sáng ra một vương triều lừng lẫy võ công, văn nghiệp.
Xem thêm: Nơi bán bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Bắc Giang 2024
Như vậy, Quý khách đã nắm được mua bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình rồi phải không nào? Để đặt mua vui lòng inbox fanpage Nội thất Dung Thủy để được trợ giúp.
bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình
bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình
bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình
bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình bàn ghế sofa gỗ phòng khách tỉnh Thái Bình