Khá nhiều người đang chập chững bước vào con đường kinh doanh lo lắng vì không rõ xưởng bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên cho phòng khách nào giá tốt và chất lượng? Dưới đây là giải đáp của Dung Thủy dành cho bạn.
1. Nhu cầu về bàn ghế sofa gỗ tự nhiên phòng khách hiện nay:
- Với nhịp sống sôi động cùng tốc độ đô thị hóa cực nhanh ở nhiều địa phương thì các khu chung cư từ giá rẻ tới cao cấp mọc lên ngày càng nhiều. Do vậy, nhu cầu về các thiết bị đồ đạc trong nhà cũng tăng lên không ngừng, trong đó có các mẫu sofa gỗ tự nhiên cho chung cư hay ghế sofa gỗ tự nhiên phòng khách nhỏ.
- Bên cạnh các khách hàng mua sắm về để dùng thì còn có khá nhiều người làm nhiệm vụ kinh doanh, bán buôn bàn ghế phòng khách. Tuy nhiên, việc tìm kiếm xưởng bán buôn bàn ghế sofa gỗ ở Hà Nội có uy tín và chất lượng tốt không phải là điều dễ dàng gì.
- Sofa gỗ sồi Nga
- Sofa gỗ hương xám
- Sofa gỗ gõ đỏ
- Sofa gỗ xoan đào
- Sofa nan
Xem thêm: Địa chỉ xưởng đóng ghế sofa gỗ theo yêu cầu Hà Nội 2024
2. Xưởng bán buôn ghế sofa gỗ phòng khách Hà Nội:
- Tại Thủ đô hiện nay có khá nhiều địa chỉ mua bàn ghế sofa giá rẻ. Do đó, nếu bạn là người kinh doanh mới vào nghề cần lựa chọn kĩ càng trước khi tiến hành hợp tác.
- Nếu vẫn còn băn khoăn khi không biết lựa chọn nơi bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên như nào, bạn có thể ghé qua xưởng sản xuất của Nội thất Dung Thủy nằm ở Thạch Xá – Thạch Thất – Hà Nội và ghé qua showroom của chúng tôi để tận mắt trải nghiệm các mẫu ghế từ lúc còn là hàng mộc tới lúc đã phun sơn PU. Ngoài các mẫu ghế có kích cỡ sẵn có theo khuôn, chúng tôi còn có thể đóng sofa gỗ tự nhiên theo yêu cầu của khách hàng. Các quy trình sản xuất của chúng tôi trải qua các công đoạn sấy tẩm kĩ càng nên không lo mối mọt. Bạn có thể mua hàng mộc về rồi tự phun sơn PU để có lợi nhuận tốt nhất cho mình.
Xem thêm: Địa chỉ bán sofa gỗ tại Hà Nội rẻ chất 2024
3. Vài nét về Hà Nội
1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Trải qua 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời. Hà Nội đã chứng kiến sự thăng trầm của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam từ Lý- Trần – Lê – Mạc – Nguyễn… kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc.
Hà Nội hiện nay có tọa độ địa lý từ 20°53′ đến 21°23′ vĩ độ Bắc và 105°44′ đến 106°02′ kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên – Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam – Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang – Bắc Ninh – Hưng Yên ở phía Đông và Hòa Bình- Phú Thọ ở phía Tây.
Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008 và Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, toàn bộ hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội sau hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô bao gồm: Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình. Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất; dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.
Bản đồ địa giới Hành chính Hà Nội
Bản đồ địa giới Hành chính Hà Nội
Địa hình
Hà Nội hiện nay vừa có núi, có đồi và địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, trong đó đồng bằng chiếm tới ¾ diện tích tự nhiên của thành phố. Độ cao trung bình của Hà Nội từ 5 đến 20 mét so với mặt nước biển, các đồi núi cao đều tập trung ở phía Bắc và Tây. Các đỉnh cao nhất là Ba Vì 1.281 mét; Gia Dê 707 mét; Chân Chim 462 mét; Thanh Lanh 427 mét và Thiên Trù 378 mét…Khu vực nội đô có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.
Khu vực nội thành và phụ cận là vùng trũng thấp trên nền đất yếu, mực nước sông Hồng về mùa lũ cao hơn mặt bằng Thành phố trung bình 4 – 5m. Hà Nội có nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển Thủy sản và du lịch, nhưng do thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước nhanh, gây úng ngập cục bộ thường xuyên vào mùa mưa. Vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía Bắc Hà Nội thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ chức nhiều loại hình du lịch.
Thủy văn
Hà Nội được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng của vùng địa lí thành phố Hà Nội là “Thành phố sông hồ” hay “Thành phố trong sông”. Nhờ các con sông lớn nhỏ đã chảy miệt mài hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ phì nhiêu này. Hiện nay, có 7 sông chảy qua Hà Nội: sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Trong đó, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới 163 km (chiếm 1/3 chiều dài của con sông này chảy qua lãnh thổ Việt Nam). Trong nội đô ngoài 2 con sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu còn có hệ thống hồ đầm là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.
Ở thế kỉ trước có trên 100 hồ lớn nhỏ, phần nhiều là hồ đầm tự nhiên, là vết tích của những khúc sông chết để lại một số hồ nhân tạo, cải tạo các cánh đồng lầy thụt thành hồ. Hiện nay, dù phần lớn đã bị san lấp lấy mặt bằng xây dựng, đến nay vẫn còn tới hàng trăm hồ đầm lớn nhỏ được phân bổ ở khắp các phường, xã của thủ đô Hà Nội. Nổi tiếng nhất là các hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Quảng Bá,Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô, Suối Hai…
Những hồ đầm này của Hà Nội không những là một kho nước lớn mà còn là hệ thống điều hòa nhiệt độ tự nhiên làm cho vùng đô thị nội thành giảm bớt sức hút nhiệt tỏa nóng của khối bê tông, sắt thép, nhựa đường và các hoạt động của các nhà máy… Hồ đầm của Hà Nội không những tạo ra cho thành phố khí hậu mát lành – tiểu khí hậu đô thị mà còn là những danh lam thắng cảnh, những vùng văn hóa đặc sắc của Thăng Long – Hà Nội.
Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Hà Nội có đặc trưng nổi bật là gió mùa ẩm, nóng và mưa nhiều về mùa hè, lạnh và ít mưa về mùa đông; được chia thành bốn mùa rõ rệt trong năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa xuân bắt đầu vào tháng 2 (hay tháng giêng âm lịch) kéo dài đến tháng 4. Mùa hạ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, nóng bức nhưng lại mưa nhiều. Mùa thu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10, trời dịu mát, lá vàng rơi. Mùa đông bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, thời tiết giá lạnh, khô hanh. Ranh giới phân chia bốn mùa chỉ có tính chất tương đối, vì Hà Nội có năm rét sớm, có năm rét muộn, có năm nóng kéo dài, nhiệt độ lên tới 40 độ C, có năm nhiệt độ xuống thấp dưới 5 độ C.
Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời khá dồi dào. Tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm khoảng 120 kcal/cm², nhiệt độ trung bình năm 24,9 độ C, độ ẩm trung bình 80 – 82%. Lượng mưa trung bình trên 1700 mm/năm (khoảng 114 ngày mưa/năm).
Trong lịch sử phát triển, Hà Nội cũng đã nhiều lần trải qua các biến đổi bất thường của khí hậu – thời tiết. Tháng 5 năm 1926, Hà Nội chứng kiến một đợt nắng khủng khiếp có ngày nhiệt độ lên tới 42,8 độ C. Tháng 1 năm 1955, mùa đông giá buốt nhất trong lịch sử, Hà Nội sống trong cái giá lạnh xuống đến 2,7 độ C. Và gần đây nhất tháng 11 năm 2008, sau khi vừa mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội hứng chịu một cơn mưa dữ dội chưa từng thấy. Hầu như tất cả các tuyến phố đều ngập chìm trong nước, lượng mưa lớn vượt quá mọi dự báo đã gây ra một trận lụt lịch sử ở Hà Nội, làm nhiều người chết, gây thiệt hại vật chất đáng kể.
Tài nguyên nước
Hệ thống sông, hồ Hà Nội thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phân bố không đều giữa các vùng, có mật độ thay đổi trong phạm vi khá lớn 0,1 – 1,5 km/km2 (chỉ kể những sông tự nhiên có dòng chảy thường xuyên) và 0,67 – 1,6 km/km2 (kể cả kênh mương). Một trong những nét đặc trưng của địa hình Hà Nội là có nhiều hồ, đầm tự nhiên. Tuy nhiên, do yêu cầu đô thị hóa và cũng do thiếu quy hoạch, quản lý kém nên nhiều ao hồ đã bị san lấp để lấy đất xây dựng. Diện tích ao, hồ, đầm của Hà Nội hiện còn lại vào khoảng 3.600 ha. Có thể nói, hiếm có một Thành phố nào trên thế giới có nhiều hồ, đầm như ở Hà Nội. Hồ, đầm của Hà Nội đã tạo nên nhiều cảnh quan sinh thái đẹp cho Thành phố, điều hòa tiểu khí hậu khu vực, rất có giá trị đối với du lịch, giải trí và nghỉ dưỡng
Hà Nội không phải là vùng dồi dào nước mặt, nhưng có lượng nước khổng lồ chảy qua sông Hồng, sông Cầu, sông Cà Lồ có thể khai thác sử dụng.
Tài nguyên đất
Hà Nội có tổng diện tích đất tự nhiên 92.097 ha, trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm 47,4%, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 8,6%, đất ở chiếm 19,26%.
Xuất phát từ yêu cầu sử dụng đất của Thủ đô Hà Nội, có 2 nhóm đất có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển kinh tế – xã hội, đó là đất nông lâm nghiệp và đất xây dựng. Phần lớn diện tích đất đai ở nội thành Hà Nội được đánh giá là không thuận lợi cho xây dựng do có hiện tượng tích nước ngầm, nước mặt, sụt lún, nứt đất, sạt lở, trôi trượt dọc sông, cấu tạo nền đất yếu.
Tài nguyên sinh vật
Hà Nội có một số kiểu hệ sinh thái đặc trưng như hệ sinh thái vùng gò đồi ở Sóc Sơn và hệ sinh thái hồ, điển hình là hồ Tây, hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái đô thị… Trong đó, các kiểu hệ sinh thái rừng vùng gò đồi và hồ có tính đa dạng sinh học cao hơn cả.
Khu hệ thực vật, động vật trong các hệ sinh thái đặc trưng của Hà Nội khá phong phú và đa dạng. Cho đến nay, đã thống kê và xác định có 655 loài thực vật bậc cao, 569 loài nấm lớn (thực vật bậc thấp), 595 loài côn trùng, 61 loài động vật đất, 33 loài bò sát-ếch nhái, 103 loài chim, 40 loài thú, 476 loài thực vật nổi, 125 loài động vật KXS Thủy sinh, 118 loài cá, 48 loài cá cảnh nhập nội. Trong số các loài sinh vật, nhiều loài có giá trị kinh tế, một số loài quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam.
Hà Nội hiện có 48 công viên, vườn hoa, vườn dạo ở 7 quận nội thành với tổng diện tích là 138 ha và 377 ha thảm cỏ. Ngoài vườn hoa, công viên, Hà Nội còn có hàng vạn cây bóng mát thuộc 67 loại thực vật trồng trên các đường phố, trong đó có 25 loài được trồng tương đối phổ biến như bằng lăng, sữa, phượng vĩ, săng đào, lim xẹt, xà cừ, sấu, muồng đen, sao đen, long nhãn, me…
Các làng hoa và cây cảnh ở Hà Nội như Nghi Tàm, Ngọc Hà, Quảng Bá, Láng, Nhật Tân,… đã có truyền thống từ lâu đời và khá nổi tiếng gần đây, nhiều làng hoa và cây cảnh được hình thành thêm ở các vùng ven đô như Vĩnh Tuy, Tây Tựu, và một số xã ở Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn cùng với các loài được chuyển từ các tỉnh phía Nam hoặc hội nhập từ nước ngoài làm cho tài nguyên sinh vật của Hà Nội ngày càng đa dạng và phong phú.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
Kinh thành Thăng Long xưa – Thủ đô Hà Nội nay là mảnh đất thiêng ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ, kết tinh những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trải qua hơn 1.000 năm hình thành và phát triển, kể từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên cửa sông Tô Lịch làm nơi định đô cho muôn đời, nơi đây, đã có rất nhiều thay đổi về mọi mặt, đặc biệt đổi thay về địa danh, địa giới, tổ chức hành chính.
Thời kỳ Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh
Theo sách Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến của Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Nội: Mùa Thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ xuống chiếu dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, đổi tên là thành Thăng Long, xây dựng Hoàng thành.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029) đắp một lớp thành đất bao bọc xung quanh gọi là Phương Thành. Trong thành được chia ra 61 phường.
Năm Kiến Trung thứ 7 (1230) đời Trần Thái Tông, định lại các phường, chia ra Tả, Hữu; gọi Hoàng Thành là Long Phượng Thành, đặt Ty Bình Bạc để cai quản.
Năm Thiệu Long thứ 8 (1265) đời Trần Thánh Tông đổi Ty Bình Bạc thành Đại An phủ sứ.
Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly lên ngôi đặt tên nước là Đại Ngu, xây dựng Tây Đô nên đổi Thăng Long thành Đông Đô.
Năm Giáp Ngọ (1414) quân Minh chiếm thành Đông Đô đổi tên thành Đông Quan.
Năm Mậu Thân (1428) Thuận Thiên thứ nhất, Lê Thái Tổ đăng quang, đặt tên nước là Đại Việt, Kinh thành gọi là Đông Đô.
Năm Thuật Thiên thứ 3 (1430) Lê Thái Tổ đổi tên Đông Đô thành Đông Kinh, dồn 61 phường thành 36 phường nằm trong hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, đứng đầu về hành chính ở Kinh thành là quan Phủ Doãn.
Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đời Lê Thánh Tông đặt Kinh thành nằm trong phủ Trung Đô, gồm hai huyện Vĩnh Xương (18 phường) và Quảng Đức (18 phường).
Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), đời Lê Thánh Tông, đổi tên phủ Trung Đô thành phủ Phục Thiên.
Năm Quảng Trung thứ 2 (1789) Nguyễn Huệ sau khi lên ngôi vua, đánh thắng quân Thanh, giải phóng Kinh thành, định đô ở Phú Xuân nên Đông Kinh trở thành thủ phủ của tổng trấn Bắc Thành.
Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc
Năm Gia Long thứ 4 (1805) Nguyễn Thế Tổ sau khi lập đô ở Phú Xuân, cho đổi tên Thăng Long (Rồng lên) thành Thăng Long (Thịnh vượng), phá bỏ Hoàng thành cũ, xây trấn thành theo kiểu Vô – băng (vauban) của Pháp. Đổi phủ Phục Thiên ra phủ Hoài Đức, huyện Vĩnh Xương ra Thọ Xương, Quảng Đức ra Vĩnh Thuận.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) Nguyễn Thành Tổ bãi bỏ Bắc Thành, cải cách hành chính đặt ra tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ (15 huyện, 127 tổng, 1.104 xã, thôn, phường). Trong đó:
– Phủ Hoài Đức có 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm.
– Phủ Thường Tín có 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên.
– Phủ Ứng Hòa có 4 huyện: Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, Thanh Oai.
– Phủ Lý Nhân có 5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương.
Xem thêm: Truy tìm nơi mua bán bộ bàn ghế gỗ tự nhiên tại Hà Nội 2024
Như vậy, quý khách đã nắm được xưởng buôn bàn ghế sofa gỗ giá tốt và chất lượng tại Hà Nội. Để tiến hành hợp tác, quý khách vui lòng liên hệ Zalo 0967.46.5594 hoặc inbox fanpage Nội thất Dung Thủy để được trợ giúp.
bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên
bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên
bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên
bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên bán buôn bàn ghế sofa gỗ tự nhiên